NẤU CHẢY BẰNG LÒ ĐIỆN CẢM ỨNG
I.
ĐỊNH
NGHĨA:
Nấu
chảy bằng điện cảm ứng (điện tử), bây giờ là phương pháp nấu chảy rất phổ biến
II.
PHÂN
LOẠI: Lò điện cảm ứng được
chia ra hai loại:
-
Lò điện cảm ứng
trung tần
-
Lò điện cảm ứng
cao tần
III.
LÒ
ĐIỆN CẢM ỨNG TRUNG TẦN:
Vận
hành dựa trên hiện tượng cảm ứng điện từ, lợi dụng hiệu ứng Jun (Joule) của
dòng điện cảm ứng trong việc nấu chảy kim loại. Điều đó có nghĩa là dựa vào điện
trở của kim loại cản trở dòng điện lưu thông bên trong nó. Dòng điện bị cản trở
nên các điện tử không lưu thông được, bị dồn ép tăng lên theo số lượng tại nơi
bị cản trở và va đập vào nhau, tạo ra nhiệt lượng cần thiết để nấu chảy kim loại.
Rõ
ràng hiệu ứng này, cao hơn cường độ dòng điện sử dụng và cao hơn điện trở bên
trong của kim loại
1.
DÒNG
ĐIỆN CẢM ỨNG:
Nồi nấu chứa hợp
kim cần nấu chảy được đưa vào một cuộn dây cảm ứng,
bên trong
có dòng điện xoay chiều với điện áp
thấp hay trung bình chạy dọc theo cuộn dây. Việc điều chỉnh điện áp của dòng điện
xoay chiều phụ thuộc vào các cảm biến điện tử đặc biệt (gọi đây là sự nấu chảy
điện tử không chính xác, vì trong đó, việc thay đổi dòng điện xoay chiều thành
dòng điện một chiều, phải sử dụng bộ nắn dòng, để
phóng thích các điện tử tự do).
Dòng
điện một chiều này làm phát sinh một từ trường
xoay chiều có cùng điện áp như dòng
điện xoay chiều. Do đó, hợp kim được đặt hoàn
toàn trong vùng từ trường xoay chiều này có dòng điện xoáy hay dòng
điện Fu-cô (Foucault) đi qua.
Qua hình vẽ chúng ta thấy, hợp kim được nấu chảy
là nhờ cuộn dây thứ cấp của một biến thế
đoản mạch và do đó toàn bộ điện năng được biến đổi thành nhiệt năng.
Biến thế này có hai cuộn dây: Cuộn
sơ cấp cho dòng điện đi qua và chỉ có dòng điện chạy trong cuộn thứ cấp mới
được biến đổi thành nhiệt năng. Việc nung nóng và nấu chảy hợp kim phụ thuộc
vào điện trở của chính hợp kim đó khi có dòng điện xoáy đi qua (với các cuộn
dây cảm ứng này, nhiệt độ có thể đạt đến 7.000 độ C). Hợp kim càng nóng thì sự
biến thiên về số lượng từ thông của hiện tượng cảm ứng từ càng lớn và sự biến
thiên này diễn ra càng nhanh (Năng lượng tạo ra từ dòng điện Fu-cô (Focault)
thì tỷ lệ thuận bình phương với tần số của nó).
2.
HIỆU
ỨNG KHUẤY TRỘN:
Ngoài
việc làm nóng hợp kim, ảnh
hưởng của dòng điện truyền dẫn bên trong hợp kim nóng
chảy còn tạo ra một hiệu ứng khuấy
trộn, thúc
đẩy quá
trình trộn lẫn đồng đều giữa các thành phần của hợp kim.
3.
VÒNG
TUẦN HOÀN CỦA NƯỚC LÀM MÁT:
Nhiệt
độ cao được tạo ra bởi sự chuyển động của các điện tích trong cuộn dây, thậm chí có thể làm nóng chảy ngay
chính cuộn dây trước khi làm
nóng chảy hợp
kim. Để tránh nguy cơ này, người ta cho
nước chảy tuần hòan bên trong ống đồng để giải nhiệt cho cuộn dây. Để thay đổi nhiệt độ,
điện áp của dòng điện được tạo ra
bởi cuộn dây cũng phải thay đổi.
Tuy nhiên, sự thay đổi nhiệt độ này
không thể điều chỉnh đến mức quá nhỏ như trong trường hợp của lò điện trở. Sự thay đổi nhiệt
độ này chỉ xảy ra trong những dải hay những khoảng nhiệt độ rộng. Do đó,
nó có liên
quan đến phạm vi nhiệt độ nhất định. Nhược
điểm của việc thay đổi nhiệt độ này được khắc phục nhờ vào đặc tính của các hợp
kim thế hệ mới, có khả năng chịu được nhiệt độ cao hơn từ 100 – 200 độ C tốt nhất
mà không có bất kỳ sự phá vỡ cấu trúc hợp kim.
4.
LỰA
CHỌN NỒI NẤU KIM LOẠI:
Như
chúng ta biết, nếu kim loại được nấu chảy thì sẽ trở thành một chất dẫn điện tốt, tức
là chúng có điện trở nhỏ và cho phép dòng điện truyền dẫn trong
nó, do
đó, sẽ khó nấu chảy
kim loại.
Vì
vậy, nếu
các hợp kim dẫn điện cao, chẳng hạn
như các hợp kim quý, muốn nấu chảy, cần sử dụng một
nồi nấu làm bằng than
chì (graphite):
Trên thực tế, chỉ cần có điện trở nhỏ, nồi nấu bằng
than chì mau
hấp thụ nhiệt, gián
tiếp làm
nóng các hợp kim chứa bên trong. Ngược lại, các hợp kim của
kim loại cơ bản (đồng, thau
, niken, bạc, vv ...), chỉ cần
có điện trở cao là chúng có thể nấu
chảy dễ
dàng mà không cần
sử dụng nồi
nấu bằng than chì, thậm chí điện trở cao có thể làm hư nồi nấu.
Trên thực tế, than chì (graphite) không được sử dụng với những hợp kim,
vì carbon sẽ kết hợp với một số nguyên tố cấu tạo nên hợp kim, hình thành hợp chất cacbua và làm cho chúng trở
nên giòn.
Tuy nhiên, trong trường hợp của lò điện cảm ứng trung tần, cần
thiết sử dụng nồi nấu kim loại
bằng than chì (graphite) nguyên chất.
5.
ƯU
ĐIỂM:
Lò điện cảm ứng trung tần có hiệu suất
điện năng
tốt, tiêu thụ điện
năng thấp, bảo đảm sự kết hợp của kim loại và
độ tinh khiết của hợp kim, đáp
ứng mục đích sử dụng đa dạng trong nấu luyện, kích thước tổng thể của
lò nhỏ gọn
và lợi thế quan trọng nhất là lò có thể nấu chảy liên tục với cường độ
làm việc cao. Có thể điều chỉnh điện năng
lên đến giá trị tối đa tạo điều kiện để lựa chọn thời điểm nấu chảy thích
hợp và giữ nhiệt độ định
trước.
Một số lò cảm ứng áp dụng kỹ thuật mới dùng chất bán dẫn silicon:
Nó gần như loại bỏ hết quá trình oxy hóa bề mặt kim loại quý trong quá trình nấu chảy. Ngoài ra, việc ứng dụng chất bán dẫn silicon đánh
dấu sự cải tiến của lò cảm ứng, thay vào
đó là đặc trưng
của hệ thống ống điện tử, đảm bảo chúng
có tuổi thọ lâu hơn. Cuối cùng, chúng có mức tiêu thụ điện năng thấp hơn.
6.
NHƯỢC
ĐIỂM:
Trong số những nhược
điểm của
lò cảm
ứng, đó là
tạo ra quá
nhiều nhiệt cho hợp kim trong một thời gian ngắn làm
thay đổi sự cân bằng hóa học của hợp
kim. Đối với trang sức, chỉ cần chọn tần số thấp khi
sử dụng, cho nên không tận dụng hết công suất của lò.
Ngay
khi bắt đầu nóng chảy,
khuyến cáo nên thiết lập cường độ dòng điện có trị số cao nhất. Sau đó, khi nhiệt độ của hợp kim tăng
lên, nên
giảm dần cường
độ dòng điện trước khi bắt đầu đúc. Theo cách đó, các kim loại trong thành phần
hợp kim có nhiệt độ nóng chảy thấp nhất không thể bốc hơi.
Trong hình
dưới đây, chúng ta có thể thấy một
lò nấu cảm ứng có chứa nồi nấu, được vận hành
bởi cơ cấu có
thể làm nghiêng nồi nấu để rót
kim loại nóng chảy
tạo thuận lợi cho các hoạt động đúc. Hơn nữa, khuôn phôi đúc
được đặt bên cạnh các nồi
nấu nhờ các phương tiện hỗ trợ đặc biệt. Do đó, quá trình đổ khuôn có thể được
thực hiện dễ dàng và an toàn.
Còn
trong hình dưới đây, là một loại lò cảm ứng khác có cấu tạo đơn giản hơn, trong đó nồi nấu được đặt cố định
trong lò. Mỗi khi đúc, người ta dùng kẹp gắp nồi nấu ra khỏi lò để rót kim loại
nóng chảy vào khuôn đúc.
IV.
LÒ
ĐIỆN CẢM ỨNG CAO TẦN:
Lò
điện cảm ứng cao tần tương tự như lò điện cảm ứng trung tần. Tuy nhiên, nó chỉ khác ở
điểm là sử dụng dòng điện truyền
dẫn có
tần số 1 MHz
thay vì 3000 Hz
như lò điện cảm ứng trung tần.
1.
ĐIỆN
ÁP:
Điện áp của dòng điện xoay chiều phải được xác định trên cơ sở các đặc
tính về
điện của vật liệu được đúc, thể tích của nó và đường kính
nồi nấu. Điện áp quá cao có thể đốt nóng lớp bề
mặt hợp kim gây ra nguy cơ quá nhiệt cho
hợp kim.
2.
ƯU
ĐIỂM:
Nó
cũng
có những
ưu điểm giống như những lò
trung tần. Ngoài ra, nó còn có ưu điểm là chi phí sản xuất thấp, do lượng hợp
kim được nấu chảy nhanh và dễ đúc.
3.
CHÂN
KHÔNG:
Kỹ thuật nấu chảy có thể mang lại kết
quả tốt hơn, nếu thực
hiện trong môi trường chân không, sẽ loại trừ được sự kết hợp không có lợi của ô-xy có
trong khí quyển với các thành phần của hợp kim tạo thành ô-xít. Trong
thực tế, lớp ô-xit bề mặt hình thành
trong bầu không khí hoàn
nguyên của lò sẽ lan rộng trên tất cả các bề mặt
trong quá trình cán, gây khó khăn trong việc loại bỏ ô-xít sau này. Nấu chảy trong chân không hay
nấu chảy trong không khí trơ thường nấu chảy nhanh hơn nấu chảy trong môi trường
bình thường,
trong đó kim loại
chuyển sang trạng thái lỏng ở nhiệt độ thấp
hơn, với một cấu trúc dày
đặc hơn, ít xốp và ít bị oxy hóa.
Chân
không được
tạo ra bằng cách dùng một máy bơm hút hết không khí ra, cho đến khi đạt được áp suất thấp khoảng
1 bar.